image banner
Một số giải pháp đảm bảo mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh Long An hiện nay

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO MỨC TỐI THIỂU CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN
 CHO HỘ NGHÈO, HỘ CẬN NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN HIỆN NAY

       Nhận thức tầm quan trọng của công tác an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững, toàn Đảng bộ và nhân dân tỉnh Long An đã quyết tâm thực hiện các chủ trương, chính sách đúng đắn và phát huy tốt các nguồn lực trong và ngoài tỉnh, từng bước thực hiện tốt việc đảm bảo an sinh xã hội một cách hiệu. Trên thực tế, hiện nay phần lớn hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu sinh kế, việc làm, thu nhập thấp, không ổn định; thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin; thiếu kỹ năng nghề nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực thấp, khó tiếp cận việc làm. Dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xu thế đô thị hoá, già hóa dân số, chênh lệch về thu nhập và mức sống, tình trạng di cư lao động đặt ra những thách thức rất lớn đối với người nghèo và công tác giảm nghèo. Thời gian tới, cần phải có những giải pháp hiệu quả tích cực hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng an sinh xã hội, đặc biệt là làm sao đảm bảo mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản cho những người thuộc diện nghèo, cận nghèo và yếu thế, nhằm hướng đến mọi người dân đều được ấm no, hạnh phúc, phát triển đó cũng là góp phần cho sự phát triển bền vững, lâu dài của tỉnh.

        Long An với diện tích tự nhiên là 4.494,93 km2  là cửa ngõ liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long với các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với vị trí chiến lược quan trọng, Long An có nhiều điều kiện phát triển kinh tế xã hội, góp phần nâng cao giá trị đời sống cho người dân, mọi người dân điều được tạo điều kiện thuận lợi phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, với dân số của tỉnh là 1.734.932 người (theo thống kê đến cuối năm 2021), vì thế để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội bền vững của tỉnh, trước tiên tỉnh cần phải đảm bảo hiệu quả việc thực hiện an sinh xã hội, giảm nghèo, hướng đến mọi người dân điều phải được học hành, được vui chơi, được hạnh phúc, được ấm no, được tạo điều kiện phát triển về mọi mặt. Với quyết tâm đó, toàn Đảng bộ và nhân dân Long An đã thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, tận dụng các nguồn lực trong và ngoài tỉnh để góp phần thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế xã hội Long An bền vững và lâu dài.

         Thời gian qua Long An đã thực hiện việc an sinh xã hội đạt được những kết quả có tính khả quan như: Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo chuẩn giai đoạn 2022-2025 chỉ còn 1,30%; góp phần giúp 112/161 xã đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 69,56% tổng số xã toàn tỉnh), có 21/112 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (chiếm 18,75% tổng số xã nông thôn mới)[1]; Cuối năm 2021, toàn tỉnh đã đào tạo trên 54.000 lao động nông thôn (30,275 học nghề phi nông nghiệp, 69,73% học nghề nông nghiệp)[2]; Số người trong hộ nghèo, cận nghèo tham gia BHYT tại thời điểm 31/12/2021: 42.487 người (tỉ lệ 100 %) và đến ngày 31/10/2022: 42.060 người (đạt tỉ lệ 100%). Tính đến thời điểm: 12/2021: số người trong các hộ nghèo, cận nghèo tham gia BHXH tự nguyện 308 người (tỉ lệ 0,72%); Về đảm bảo nơi ở cho người nghèo, bằng nguồn kinh phí của Trung ương, tỉnh, huyện, huy động của các ngành, đơn vị hảo tâm và nhân dân đã đã hỗ trợ đầu tư xây dựng và sửa chữa trên 2.000 căn nhà đại đoàn kết với khoảng 78 tỷ đồng.[3]...

       Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề an sinh xã hội của tỉnh  cũng gặp không ít khó khăn như:

       Tình trạng số hộ cận nghèo, mới thoát nghèo có nguy cơ tái nghèo trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp hiện nay, một số hộ nghèo có người cao tuổi, trẻ mồ côi hoặc tật nguyền thì rất khó thoát nghèo (những hộ này sống chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí trợ cấp xã hội hàng tháng). Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo còn khó khăn, trở ngại do kết cấu hạ tầng nông thôn chưa đồng bộ; việc làm cho lao động nông thôn, số lao động lớn tuổi cũng còn nhiều khó khăn nhất là ở các vùng chuyển đổi công nghiệp hóa; mức vốn cho vay thoát nghèo thấp, chưa khơi dậy và huy động hết tiềm năng các nguồn lực trong cộng đồng để thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững.

       Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, phát triển kinh tế thị trường cũng đem lại nhiều tác động tiêu cực không kém như phá sản, thất nghiệp, mất an ninh trật tự,… cùng với những vấn đề về thiên tai dịch bệnh hay những vấn đề tiêu cực về chính trị xã hội đã làm cho không ít người nghèo và các đối tượng yếu thế trong xã hội bị nhiều tổn thương. Một vài nơi cấp uỷ Đảng chưa quan tâm sâu sát, chưa chủ động xây dựng kế hoạch phù hợp triển khai, quán triệt thực hiện các chương trình quốc gia về giảm nghèo, hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo về an sinh xã hội...

       Với những khó khăn thách thức đó, toàn Đảng bộ và nhân dân Long An cần quyết tâm hơn nữa trong thực hiện chính sách an sinh xã hội phù hợp hơn. Để thực hiện tốt hơn, toàn Đảng bộ và nhân dân Long An cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Một là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền, tham mưu phối hợp của các đoàn thể ở cơ sở thực hiện an sinh xã hội cho hộ nghèo, cận nghèo; Hai là, đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong thực hiện an sinh xã hội; Ba là, tăng cường hoạt động đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho hộ nghèo và hộ cận nghèo; Bốn là, tăng cường tuyên truyền, hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo có điều kiện tham gia BHXH; Năm là, đảm bảo mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản cho tất cả hộ nghèo, cận nghèo.

       Riêng về vấn đề đảm bảo mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản cho tất cả hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng yếu thế khác (về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân, xin đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:

       Về đảm bảo tối thiểu về giáo dục

       Một là, tiếp tục cải thiện chính sách giáo dục: Mặc dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ cho người nghèo, nhưng trẻ em trong các gia đình này vẫn còn gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ giáo dục, thậm chí là là bỏ học còn sớm. Vì vậy, ngân sách nhà nước cần tập trung hơn cho các bậc giáo dục vùng khó khăn và vùng tập trung đối tượng yếu thế (khu vực các huyện vùng Đồng Tháp Mười, Đức Huệ, các khu nhà trọ, nhà ở công nhân,… ).

       Cần tiếp tục ban hành chính sách hỗ trợ cho hộ gia đình nghèo, cận nghèo giảm bớt các chi phí cho giáo dục như: miễn giảm học phí 100% cho con em hộ cận nghèo; cấp học bổng và học phẩm; hỗ trợ bữa trưa, đặc biệt ở các bậc học phổ cập để đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng cho học sinh nghèo, con em gia đình công nhân có hoàn cảnh khó khăn.

       Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, định hướng nghề nghiệp và đào tạo nghề cho học sinh nói chung, học sinh nghèo nói riêng sau chương trình giáo dục phổ thông, đặc biệt là các học sinh bỏ học sớm ở các cấp.

       Hai là, đảm bảo cung cấp dịch vụ giáo dục: cần chú trọng phát triển mạng lưới các trường lớp ở vùng khó khăn, tập trung cải thiện giáo dục mầm non, chú trọng giáo dục đầu đời cho con em các gia đình thu nhập thấp. Hướng tới phổ cập ở cấp trung học phổ thông trong tương lai gần. Đa dạng hóa các loại hình trường, lớp và hình thức học tập, tạo điều kiện thu hút những học sinh nghèo đến trường.

       Một số mô hình đề xuất UBND các cấp, Sở Giáo dục và đào tạo và các cơ quan có thẩm quyền sớm thực hiện như: tổ chức vận hành hệ thống thư viện sách giáo khoa dùng chung; đầu tư trang bị thiết bị dụng cụ học tập dùng chung,… cho học sinh sử dụng nhiều lần tại các trường học bằng các nguồn kinh phí ngân sách và tài trợ. Những mô hình này chắc chắn sẽ giảm đáng kể chi phí tiếp cận giáo dục của các gia đình nghèo, thu nhập thấp trong bối cảnh giá cả của sách giáo khoa và các mặt hàng tiêu dùng cho giáo dục khác ngày càng tăng cao. Qua đó thu hút và tạo điều kiện cho trẻ đến trường nhiều hơn.

       Ba là, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục: Cần trang bị cho các em kiến thức và công cụ nhằm giúp các em hiểu được các quyền của mình, đồng thời có thể trao đổi các nhu cầu, nguyện vọng của mình với giáo viên, các cấp quản lý và các nhà hoạch định chính sách một cách tích cực. Những học sinh thuộc các hộ gia đình nghèo thì trình độ học vấn của cha mẹ hạn chế nên không hiểu rõ được tầm quan trọng của giáo dục vì vậy cần việc nâng cao năng lực cho các hộ gia đình và học sinh nghèo thông qua việc tuyên truyền, tập huấn cho cha mẹ để họ có kiến thức về việc chăm sóc, nuôi dạy con cái, có khả năng giúp con em mình tiếp cận đầy đủ dịch vụ có chất lượng tốt. Những giải pháp này có thể được thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thanh niên, phụ nữ,… ở cấp cơ sở phối hợp thực hiện.

       Bốn là, cùng với định hướng chuyển đổi số toàn diện trên các lĩnh vực của tỉnh, cần có những chương trình hỗ trợ cho các nhóm yếu thế. Trước hết, cần đảm bảo việc tiếp cận được đến dịch vụ Internet với chi phí phải chăng; tăng cường việc nâng cao nhận thức và kỹ năng của người dân ở vùng sâu, vùng xa tiếp cận với việc chuyển đổi số - từ tiếp cận thông tin xã hội, dự báo thời tiết, dịch bệnh gia súc, đến kỹ thuật khuyến nông, kỹ năng đặc thù, tư vấn sức khỏe cũng như nhiều vấn đề khác mà các ứng dụng trên điện thoại thông minh có thể mang lại.

       Về đảm bảo tối thiểu về y tế

  •        Một là, chú trọng phát triển y tế phục vụ các nhóm yếu thế, đặc biệt bao gồm phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi trong bối cảnh quá trình già hóa dân số đang tăng tốc. Phấn đấu để người nghèo, người yếu thế thể tiếp cận và chi trả được cho các dịch vụ y tế với giá phải chăng. Công tác truyền thông và nâng cao thực hành về dinh dưỡng và hoạt động thể lực, đặc biệt là vệ sinh môi trường sống cần đẩy mạnh trong hệ thống giáo dục nói riêng, đặc biệt ở các trường mầm non và tiểu học, và toàn hệ thống nói chung.

       Hai là, đẩy mạnh hơn nữa vai trò và tầm quan trọng của hoạt động y tế dự phòng như tiêm chủng mở rộng, khám bệnh sàng lọc định kỳ và chẩn đoán sớm,… Tuyên truyền, vận động người dân tiêm chủng đầy đủ; hỗ trợ tài chính cho việc tiêm chủng các loại bệnh ngoài danh mục tiêm chủng mở rộng và khám bệnh định kỳ cho người nghèo, người có thu nhập thấp vì chi phí phòng bệnh và phát hiện bệnh sớm sẽ ít chi phí hơn là chi phí điều trị khi bệnh nặng. Tích cực vận động các tổ chức nhân đạo, từ thiện khám chữa bệnh miễn phí và lồng ghép các chương trình y tế quốc gia để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và người nghèo.

  •        Ba là, tập trung nâng cao tầm vóc, trí lực, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em ở các vùng nghèo, vùng khó khăn, các gia đình công nhân. Trong đó ưu tiên cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm suy dinh dưỡng thấp còi, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể trạng và tầm vóc của trẻ em từ 0 đến 16 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và trẻ em vùng nghèo, vùng khó khăn, khu nhà trọ công nhân.
  •        Bốn là, cần ưu tiên củng cố hệ thống y tế cơ sở do đây là dịch vụ gần người dân nhất, đặc biệt là những người nghèo, người thu nhập thấp, người dân ở vùng sâu vùng xa. Nâng cao chất lượng của bệnh viện tuyến huyện, để kéo gần khoảng cách với chất lượng của tuyến trên.
  •        Năm là, đẩy mạnh chất lượng khám chữa bệnh theo BHYT, đặc biệt ưu tiên tăng mức hỗ trợ ngân sách để tăng diện bao phủ và tăng mức hỗ trợ. Tăng cường thực hiện luân chuyển cán bộ y tế để tăng cường lực lượng y bác sỹ cho các khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt đối với vùng sâu và biên giới.

       Về hỗ trợ đầu tư các công trình cho các xã đặc biệt khó khăn

       Một là, hạ tầng kỹ thuật luôn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, nơi có địa hình địa lý cách trở, xa xôi, kinh tế - xã hội và hạ tầng kỹ thuật công cộng còn khó khăn thường có có tỷ lệ hộ nghèo cao. Do đó, cần ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật, các công trình giao thông, năng lượng, kỹ thuật số,… cho các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.

       Hai là, có cơ chế hỗ trợ tín dụng ưu đãi trong đầu tư xây dựng các công trình nhằm phục vụ hoạt động kinh tế hộ gia đình, tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống.

       Về hỗ trợ xây dựng nhà ở

       Một là, đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030[4]. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa nhà tạm giai đoạn 2013 - 2020. Tiến hành rà soát và nắm chắc số lượng các hộ chưa có nhà ở ổn định, nhà tạm, nhà hư hỏng nặng cần được xây mới, sửa chữa để đề xuất bi65n pháp hỗ trợ phù hợp.

        Ðổi mới cơ chế hỗ trợ nhà ở cho người thu nhập thấp ở cả đô thị lẫn nông thôn để có giá thuê, giá mua hợp lý với các đối tượng. Hỗ trợ tín dụng xây nhà ở có điều kiện đi kèm với tạo việc làm nhằm tạo điều kiện về sinh sống và động lực lao động cho người nghèo, tránh tâm lý ỷ lại vào Nhà nước

       Hai là, tập trung giải quyết nhu cầu về nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên, nơi mà nhu cầu nhà ở rất bức thiết và còn khó khăn.

       Ba là, khắc phục những khó khăn về đất đai, quy hoạch, vốn, thủ tục, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh doanh tham gia thực hiện các dự án phát triển nhà ở xã hội, có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở tại các khu công nghiệp, đi kèm với kiểm tra, giám sát chặt chẽ nhằm tránh lợi dụng, trục lợi chính sách.

       Về bảo đảm tối thiểu về nước sạch

       Một là, tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2012 - 2015 và các năm tiếp theo, ưu tiên cho người dân ở vùng sâu xa, vùng ngập lũ, vùng bị nhiễm mặn[5]. Cải thiện cơ bản tình trạng sử dụng nước sinh hoạt của dân cư, đặc biệt là dân cư nông thôn, vùng thiếu nước nước sạch. Phấn đấu 100% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 70% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia.

       Đầu tư các dự án, công trình nước sạch tập trung, theo đó cần nghiên cứu kỹ lưỡng, có kiểm tra, đánh giá các công trình đã triển khai, nhằm rút kinh nghiệm cho các công trình tiếp theo. Sửa chữa, nâng cấp, cải tạo các công trình cấp nước hiện có đáp ứng yêu cầu chất lượng nước, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo ứng phó thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu. Cũng cần quy trách nhiệm cụ thể cho các địa phương, vì trên thực tế, đã có không ít công trình đầu tư thiếu quản lý giám sát, gây thất thoát, lãnh phí nguồn lực mà không mang lại hiệu quả trên thực tế.

       Hai là, dùng ngân sách hoặc huy động các nguồn lực xã hội hỗ trợ đầu tư mô hình cấp nước quy mô hộ gia đình. Theo đó, hỗ trợ đầu tư xây dựng các mô hình thu, xử lý, trữ nước an toàn hộ gia đình, cung cấp các thiết bị xử lý nước hộ gia đình (như hồ chứa, bồn chứa nước mưa tại các hộ gia đình) đảm bảo chất lượng tại các khu vực chưa thể đầu tư cấp nước tập trung. Ưu tiên hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, đầu tư xây dựng, cung cấp thiết bị cho xử lý và trữ nước an toàn hộ gia đình đối với khu vực khó khăn, gia đình chính sách, và đối tượng dễ bị tổn thương.

       Về bảo đảm tối thiểu về thông tin và truyền thông

       Một là, tăng cường thông tin truyền thông, phát triển mạng lưới thông tin cơ sở đến người dân vùng nông thôn, các khu công nghiệp, nhà trọ công nhân,... Ðẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo giai đoạn 2012 - 2015 và các năm tiếp theo.

       Phát triển hệ thống thông tin phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của từng nơi, hình thức thông tin truyền thông cần gần gũi, dễ tiếp cận với người dân như phát thanh công cộng, thông tin qua ứng dụng Long An Số.

       Hai là, cần công khai, cập nhật các thông tin về quy hoạch, kế hoạch, định hướng phát triển kinh tế xã hội kịp thời, rộng rãi đến người dân, tạo điều kiện tiếp cận thông tin dễ dàng hơn với các gia đình hộ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng yếu thế khác.

       Đảm bảo cho người nghèo, người yếu tế tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là một trong các nội dung của chính sách an sinh xã hội, góp phần vào hiệu quả của công tác giảm nghèo. Song song đó, Long An cần phải thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp để ngày càng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đáp ứng yêu cầu đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh nhà, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025. Đến năm 2025, giữ vững vị trí dẫn đầu Vùng Đồng bằng sông Cửu Long và phấn đấu đến năm 2030 trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam./.

 ThS.Trần Minh Quang

Khoa Nhà nước và pháp luật

 

 



[1] UBND Tỉnh Long An: Báo cáo số 2749/BC-UBND ngày 07/9/2022 của UBND tỉnh về Tổng kết 20 năm triển khai chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP trên địa bàn tỉnh (giai đoạn 2002-2022)

[2] Tỉnh ủy Long An: Báo cáo số 198-BC/TU ngày 27/7/2022 về tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW của Ban Bí thư (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dạy nghề cho lao động nông thôn.

 

[3] Tỉnh ủy Long An: Báo cáo số 177-BC/TU ngày 16/6/2022 của Tỉnh ủy Long An tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Tw5 (khóa XI) một số vân đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020

 

[4] Quyết định 2161/QĐ-TTg ngày 22/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045

[5] Quyết định 1212/QĐ-TTg ngày 05/09/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo giai đoạn 2012 - 2015

 

image advertisement
THÔNG TIN ĐÀO TẠO
Thư viện ảnh
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1