“Cơ sở hạ tầng” theo quan niệm của Mác và vận dụng trong phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
“CƠ SỞ HẠ TẦNG” THEO
QUAN NIỆM CỦA MÁC VÀ VẬN DỤNG
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC
TA
Ph. Ăngghen đã khẳng định "điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật ở chỗ; loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất"[1]. Như vậy, có thể thấy sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người, nó là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển - nhu cầu phong phú và vô tận của con người. Cùng với việc cải biến thế giới xung quanh, con người cũng đồng thời cải biến bản thân mình và các quan hệ giữa con người với nhau nhằm làm cho việc chinh phục giới tự nhiên đạt hiệu quả cao hơn. Ăngghen khẳng định bằng việc " sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình"[2] và "lao động là điều kiện cơ bản và đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người"[3].
Như vậy, xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật chất. Lịch sử xã hội do vậy trước hết cũng là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. Các Mác cho rằng "việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp …tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáp của con người ta". Như vậy, dù được xem xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình hành thành và phát triển xã hội loài người nói chung hay được xem xét trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của xã hội hiện thực nói riêng thì sự sản xuất vật chất vẫn luôn luôn đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội – nó chính là cơ sở hạ tầng.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác đã chỉ ra xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải phân tích về quan hệ sản xuất, chính quan hệ sản xuất là cơ sở khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học. Ph.Ăngghen đã viết: "…trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy".[4] Mác khẳng định: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".[5]
Như vậy cơ sở hạ tầng trong lý tư tưởng của Mác – Ăgghen chính là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là những quan hệ cơ bản, ban đầu quyết định tất cả mối quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, quan hệ sản xuất được Mác nêu gồm ba yếu tố: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Trong đó quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định. Cơ sở hạ tầng hay các quan hệ sản xuất trong mỗi phương thức sản xuất nhất định phải có quan hệ biện chứng với hai yếu tố còn lại là lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu những quan hệ sản xuất vật chất cơ bản nhất định đó là quan hệ sản xuất. Phù hợp với kiểu quan hệ sản xuất đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật…Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội khác. v.v. Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội và các quan hệ chính trị tinh thần hình thành trên các quan hệ kinh tế đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong phạm trù cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trong nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. C.Mác viết; " Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó".[6]
Nếu trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thựng tầng: quan hệ giữa con người với chế độ sở hữu, cách thức tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra trong xã hội sẽ quyết định hệ tư tưởng kinh tế, chính trị, pháp quyền, tôn giáo văn hóa, nghệ thuật…và trên cơ sở ấy các thiết chế tương chế tương ứng được hình thành, xây dựng và phát triển thì trong quan hệ với lực lương sản xuất, tức trình độ người lao động, tư liệu sản xuất đặc thù mà xã hội tiêu dùng, khai thác, cách thức con người tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên lại quyết định các quan hệ sản xuất hay cơ sở hạ tầng xã hội. Thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất nhất định trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một quan hệ sản xuất nhất định mà ở đó có một chế độ sở hữu mang tính chất thống trị tất yếu, nó chi phối các quan hệ còn lại như cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, phân phối sản phẩm làm ra, thậm chí nó còn dẫn dắt, định hướng các kiểu sản xuất dựa trên những quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ, quan hệ sản xuất mầm móng của xã hội tương lai. Khi trình độ của con người phát triển vượt bậc, sự sáng chế, chế tạo và sử dụng tư liệu sản xuất đã phát triển khác biệt về tính chất so với giai đoạn trước (lực lượng sản xuất có sự thay đổi về tính chất, trình độ tức lực lượng sản xuất mới đã ra đời thay thế cho lực lượng sản xuất cũ) thì cơ sở, nền tảng của xã hội là quan hệ con người với con người với trong sở hữu tư liện sản xuất, tổ chức sản xuất, phân phối trao đổi sản phẩm cũng có bước thay đổi cho phù hợp với lực lượng sản xuất mới và lúc ấy, khi quan hệ sản xuất mới hình thành kéo theo nó những tư tưởng kinh tế, chính trị, tôn giáo, pháp quyền, văn hóa…cũng có bước thay đổi cho phù hợp với trình độ và quan hệ giữa con người ta với nhau lúc bấy giờ. Đó chính là sự phát triển và tiến bộ của xã hội loài người do chính hoạt động lao động sản xuất quyết định.
Mác đã khẳng định và lý giải sự thay đổi các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử xã hội loài người chung quy là do cơ sở của đời sống xã hội thay đổi do trình độ con người trong sản xuất ngày một nâng lên. Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản và các quá trình vận động của nó, Mác khẳng định trong chủ nghĩa tư bản, dưới sự tác động của hệ thống quy luật khách quan giá trị, cung cầu, cạnh tranh, kèm theo nó là sự cải tiến không ngừng lực lượng sản xuất xã hội làm cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển và được xã hội hóa cao, nhưng do bản chất của chủ nghĩa tư bản là chế độ sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất nhằm thu hút toàn bộ giá trị thặng dư xã hội do mọi tầng lớp lao động tạo ra, phổ biến là do giai cấp công nhân tạo ra về tay chủ sở hữu tư liệu sản xuất – giai cấp tư sản, từ đó duy trì sự giàu có và địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Do bản chất của chế độ tư hữu đồng thời cũng là giai cấp thống trị, giai cấp tư sản không dễ dàng tự cải tiến, thay đổi quan hệ sản xuất (xã hội hóa quan hệ sản xuất- cũng đồng thời là tự xóa bỏ địa vị thống trị của mình) cho phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất đã và đang tồn tại, chính điều ấy gây cản trở và những tiêu cực như khủng hoảng kinh tế kéo dài, có tính chất chu kỳ trong điều kiện sản xuất xã hội phát triển cao; sự đấu tranh giai cấp liên tục và mạnh dần do sự bần cùng hóa của giai cấp công nhân ngày càng lớn và rõ nét (bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối). Do vậy chủ nghĩa tư bản cũng đã có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất là chuyển quan hệ sản xuất thống trị của xã hội từ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN về TLSX sang quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tập thể tư nhân TBCN về TLSX để thích nghi tạm thời với trình độ lự lượng sản xuất đang dược xã hội hóa cao. Tuy nhiên, theo đúng quy luật của lịch sử, khi lực lượng sản xuất mới đã ra đời thay thế cho lực lượng sản xuất cũ thì cơ sở hạ tầng của xã hội tất yếu sẽ thay đổi theo. Trong CNTB, LLSX xã hội hóa cao đòi hỏi tất yếu quan hệ sản xuất của xã hội phải được xã hội hóa, tức quan hệ sản xuất thống trị phải dựa trên chế độ sở hữu được xã hội hóa (sở hữu công hữu), có như vậy mới thực hiện tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh trên phạm vi xã hội và thực hiện phân phối thích ứng trong điều kiện lực lược sản xuất xã hội phát triển cao. Và khi ấy tất yếu là kiến trúc thượng tầng xã hội, thể chế kinh tế văn hóa xã hội sẽ phát triển theo hướng tích cực, nó không chỉ nhằm bảo vệ cho một giai cấp chiếm số ít trong xã hội như khi quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân giữ vai trò thống trị trước đây mà cho con người trong toàn xã hội, cho cả lực lượng lao động rộng lớn của xã hội, tức xã hội đã thay đổi về chất, tiến bộ vượt bậc, lược lượng sản xuất xã hội hóa đã hình thành tất yếu kéo theo quan hệ sản xuất xã hội hóa và mọi vấn đề về sản xuất, kinh doanh, phân phối, chính trị, văn hóa… sẽ hướng tới phục vụ cho tất cả mọi người, con người trong xã hội ấy được bình đẳng, tự do và công bằng trong hưởng thụ mọi giá trị từ khai thác tự nhiên, lao động sản xuất của chính lực lượng lao động xã hội, không có sự phân biệt giàu nghèo, lao động chân tay hay trí óc "…………………". Đó chính là chủ nghĩa công sản – hình thái kinh tế xã hội thứ năm trong lịch sử xã hội loài người mà giai đọa thấp của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Vân dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin, sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân, dân tộc Việt Nam đã đồng thời thực hiện song hành cuộc cách mạng giai cấp, đưa đất nước thoát khỏi chế độ quan chủ chuyên chế, bỏ qua chế độ tư bản để đi lên xã hội tiến bộ văn minh mà xu hướng thế giới đang hướng tới. Nhưng quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một trình độ thấp kém, từ nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ manh mún, đa số lao động chân tay và ngành nghề thủ công truyền thống là cuộc cách mạng lâu dài, gian khổ và khó khăn. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của ta khác với các nước đã qua tư bản chủ nghĩa ở chỗ chúng ta vừa phải từng bước phát triển lực lượng sản xuất xã hội cho đạt trình độ của nhân loại – xã hội hóa lực lượng sản xuất- đồng thời phải từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước, đảm bảo kinh tế hát triển đến đâu phải giải quyết tiến bộ và công bằng xã hội đến đấy. Vận dụng tư tưởng "cơ sở hạ tầng" của Mác và nguyên lý chủ nghĩa Mác Lênnin về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định do lực lượng sản xuất thấp kém, chúng ta không thể đi ngay vào quan hệ sản xuất xã hội hóa, tức đi thẳng đến xây dựng chế độ sở hữu công hữu như đặc trưng của xã hội công sản chủ nghĩa mà ta đang xây dựng vì điều đó đồng nghĩa với chúng ta đã xây dựng một quan hệ sản xuất vượt trước. Do vậy, ở Đại hội này, Đảng ta chủ trương xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung với kinh tế Nhà nước ở Trung ương và các Hợp tác xã ỡ địa phương mà thay vào đó xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về TLSX chính yếu, chấp nhận kinh tế tư nhân vì các loại hình sở hữu tư nhân còn tồn tại trong nền kinh tế là một tất yếu do trình độ lực lượng sản xuất quyết định. Trên cơ sờ ấy, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi. Thể chế kinh tế thị trường, hệ thống luật kinh tế đã được quan tâm xây dựng (Luật Đầu tư nước ngoài đã ra đời 1987).
Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, lực lượng sản xuất trong nước từng bước thay đổi và tiến bộ không ngừng, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ; khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển, có quy mô lớn dần, giải quyết được công ăn, việc làm, nâng cao dần tay nghề cho một bộ phận của lực lượng lao động xã hội. Lao động nông nghiệp, cách thức sản xuất nông nghiệp cũng bước đầu thay đổi, lao động nông nghiệp từng bước áp dụng máy móc thiết bị vào sản xuất, năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, trình độ lực lượng lao động xã hội cũng thay đổi…Trong từng giai đoạn, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn và xác định các quan hệ sản xuất, thể hiện thông qua sự phát triển và tồn tại các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn. Cụ thể như:
Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định Việt Nam còn tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh và tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán kinh doanh dịch vụ cá thể cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; KT tư bản nhà nước (công ty hợp doanh); KT tự nhiên, tự cấp, tự túc.
Đại hội VII của Đảng (1991) xác định kinh tế nước ta gồm những thành phần: KT quốc doanh (CNXH), KT tập thể, KT cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế gia đình.
Đại hội VIII của Đảng (1996) xác định nền kinh tế nước ta gồm các thành phần sau: KT nhà nước, kinh tế hợp tác nồng cốt là các HTX, KT TBNN, KT cá thể tiểu chủ, KT tư bản tư nhân.
Đại hội IX của Đảng (2001) khẳng định nền kinh tế nước ta gồm sáu thành phần: KT nhà nước, KT tập thể, KT cá thể tiểu chủ, KT TBTN, KT tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội X của Đảng (2006) khẳng định do thực tiễn phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển với sự tồn tại của 5 thành phần kinh tế: KT nhà nước, KT tập thể, KT tư nhân, KT TBTN, KT tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội XI của Đảng (2011), Đảng ta khẳng định nền kinh tế nước ta còn tồn tại 4 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội XII của Đảng (2016), đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần: "Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…"[7].
Thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần sau hơn 30 năm đổi mới ở nước ta đã đạt được những kết quả nhất định như hệ thống pháp luật, cơ chế, chủ trương, chính sách ngày một hoàn thiện; khơi thông, thu hút và phát huy mọi nguồn lực(vốn, lao động, công nghệ - cả trong và ngoài nước); góp phần quan trọng trong giải quyết công ăn việc làm, cải thiện, gia tăngthu nhập cho người lao động; gia tăng nguồn thu ngân sách…thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giúp "Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi."[8]
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn tồn tại những hạn chế nhất định. Cụ thể như:
Nhận thức về các thành phần kinh tế chưa đủ rõ, chưa đồng nhất (nhất là vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế dân doanh với tư cách là động lực tăng trưởng kinh tế); thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, chưa thật đồng bộ, thông suốt, chưa thật sự là động lực đột phá để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cho các thành phần kinh tế, thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh, hợp tác và cải thiện môi trường kinh doanh.
Nhiều quy định trong hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và quản lý, điều hành chưa tuân thủ đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường, nhất là trong phân bổ nguồn lực (vốn, nhân lực chất lượng cao, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên…). Do vậy chưa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng. Các loại thị trường vận hành còn nhiều vướng mắc, quản lý nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập; chưa tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư lành mạnh cho mọi thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân.
Thông tin kinh tế, thị trường về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu, nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế…Kinh tế hợp tác quy mô còn nhỏ lẻ, cơ chế chính sách trong thành lập, hoạt động còn nhiều bất cập, việc hỗ trợ thủ tục pháp lý nhiều nơi chưa tốt, do vậy chưa phát huy tối đa sức mạnh của thành phần này trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn…
Thực tế trong quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ từ xuất phát thấp, nước ta vừa phải phát triển lực lượng sản xuất, vừa từng bước xây dựng quan hệ sản xuất theo hướng tiến bộ và phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất ở từng giai đoạn. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, thực hiện, bên cạnh thành tựu đạt được cũng còn tồn tại không ít khó khăn. Do vậy, để thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Đảm bảo xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh công khai, minh bạch, đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển nhằm khai thác tối đa tiềm năng về vốn, nhân lực, công nghệ - nhất là khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy gia tăng việc làm, cải thiện thu nhập, ổn định đời sống nhân dân, gia tăng nguồn thu ngân sách nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức, cá nhân đã được quy định trong Hiến Pháp. Đảm bảo công khai, minh bạch về nghĩa vụ, trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Thứ ba, tuyên truyển sâu rộng, nhất quán trong nhận thức về sự tồn tại tất yếu của các thành phần kinh tế, vai trò của các thành phần trong đóng góp cho tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung, từ đó xây dựng cơ chế chính sách bình đẳng trong đối xử, thể hiện từ chủ trương, chính sách đến thực tiễn phân bổ các nguồn lực giữa các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp.
Thứ tư, khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp doanh nghiệp. Có chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảm bảo quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
Thứ năm, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế thực hiện tái cấu trúc chiến lược sản xuất, kinh doanh, đổi mới cách thức tiếp cận thị trường, chủ động trong hội nhập, cạnh tranh, vừa tiếp cận công nghệ - kỹ thuật tiến bộ, vừa đổi mới tư duy kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển nhanh, bền vững.
Thứ sáu, tạo môi trường thuận lợi phát triển các doanh nghiệp:
Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động theo cơ chế thị trường; xác định rõ danh mục và tăng tiềm lực, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn và cần nắm giữ cổ phần chi phối. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.Tăng cường quản lý Nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Bố trí đúng cán bộ lãnh đạo, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, phân định rõ hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, khuyến khích, hỗ trợ về mặt pháp lý, thủ tục hành chính, vốn, đào tạo nhân lực, chuyển giao kỹ thuật - công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế tập thể , đặc biệt là ở những vùng nông thôn, giúp hình thành tư duy sản xuất mới, có tổ chức, có liên kết, dễ tiếp cận thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, kỹ thuật, giống vật nuôi, cây trồng mới vừa tăng năng suất, chất lượng, vừa góp phần xây dựng thương hiệu, sản xuất theo chuẩn truy xuất nguồn gốc, xuất xứ, khắc phục được hạn chế của quy mô sản xuất nhỏ, manh mún ở nhiều vùng nông thôn trong cả nước hiện nay.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với hình thức sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán, các công ty giao dịch, môi giới chứng khoán, đẩy mạnh kiểm tra giám sát, đảm bảo tính công khai, minh bạch và trung thực của báo cáo tài chính của các doanh nghiệp giao dịch trên sàn, thúc đẩy phát triển mạnh loại hình doanh nghiệp ở dạng công ty cổ phần nhằm thu hút mọi nguồn vốn rỗi trong dân cư, tập trung mọi nguồn lực đầu tư cho tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Quan tâm phát phát triển kinh tế cá thể, hộ gia đình, thực hiện tốt chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư vào từng địa bàn, hỗ trợ đào tạo nghề nông thôn. Tiếp tục thực hiện việc hỗ trợ bà con các dân tộc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất. Tạo thuận lợi về thủ tục cho các hộ gia đình được vay vốn ngân hàng theo quy chế hiện hành để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Có cơ chế khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình trên cơ sở bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của các chủ doanh nghiệp, các hộ kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Có thể nói, trong suốt quá trình xây dựng đường lối đổi mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở nhận thức lý luận của Mác và việc xác định các thành phần kinh tế - "cơ sở hạ tầng" trong từng giai đoạn, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng thể chế kinh tế thị trường, thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu thực tiễn đất nước, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, từ đó làm thay đổi cơ sở hạ tầng xã hội, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo nền tảng vững chắc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.
ThS. Lê Thị Tuyết Vân
Khoa Lý luận cơ sở
Tài liệu tham khảo:
1. C.Mác:Toàn tập, NXB. CTQG - ST, HN.1993, t.23.
2. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN.1994, t.3.
3. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN.1994, t.20.
4. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập,NXB. CTQG, HN. 1995, t.13
5. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN.1995, t.21.
6. C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG - ST, HN.1998, t.34.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XII, HN.2016.
8. PGS,TS.Vũ Văn Hiền – TS. Đinh Xuân Lý (Đồng chủ biên): Đổi mới ở Việt Nam tiến trình, thành tựu và kinh nghiệm, NXB.CTQG, HN.2004.
9. TS. Trần Xuân Kiên: Việt Nam tầm nhìn 2050, NXB. Thanh niên, TPHCM.2012.
10.GS.TSKH. Lương Xuân Quỳ (chủ biên): Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới(sách tham khảo), NXB. CTQG, HN.2015.
11. PSG. TS Tô Huy Rứa – GS.TS Hoàng Chí Bảo – PGS TS Trần Khác Việt- PGS.TS Lê Ngọc Tòng (đồng chủ biên): Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 – 2005 (sách tham khảo, tập I), NXB.LLCT, HN.2005.
12. GS.TS Nguyễn Văn Thạo – TS. Nguyễn Hữu Đạt (Đồng chủ biên): Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay (sách tham khảo), NXB. CTQG, HN.2004.
[1] C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG – ST, HN.1998, t.34, tr.241
[2] C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN.1994, t.3, tr.29
[3]C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN.1994, t.20, tr.641
[4]C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB. CTQG, HN.1995, t.21, tr.11
[5] C.Mác:Toàn tậpNXB. CTQG - ST, HN.1993, t.23 tr.269
[6] C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, sđd,1995 t.13 tr.15
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XII, HN.2016,tr.102-103
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ XII, HN.2016, tr.65-66