Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG
VÀ PHÁT TRIỂN DÂN TỘC VIỆT NAM
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thông qua các văn kiện hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, trong đó thể hiện những nội dung rất cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Từ một người yêu nước ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911), đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam: con đường cách mạng vô sản. Người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc: Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới CNXH. Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông. Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người xác định, kháng chiến trường kỳ gian khổ, phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi. Lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn vì đã đi vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam. Có được thắng lợi to lớn đó là bởi có tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta biến tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực.
Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”[1]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[2]. Bước phát triển trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng đã cho thấy cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, sự khẳng định này cũng bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những những luận điệu sai trái, thù địch, đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị to lớn, toàn diện cống hiến vô giá về lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh được thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX chứng thực, Đại hội lần thứ IX (4/2001), Đảng ta đã nhận thức: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”[3].
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng giải phóng dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước giành thắng lợi
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ tư tưởng dẫn đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, và chính thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, khẳng định tính đúng đắn, giàu sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một hệ thống những quan điểm lý luận về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về cải biết xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.... Trong đó, việc nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong thời kỳ mới là cần thiết. Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc tiếp sau của Đảng (Đại hội XI, XII) cũng luôn khẳng định công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, khẳng định tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là những nhân tố không thể thiếu trong tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng (2021) khẳng định quan điểm chỉ đạo là: “Kiên định và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”[4].
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp Đảng ta, nhân dân ta nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm tự do và hạnh phúc của con người, tiến tới xã hội, xã hội chủ nghĩa. Tất cả các quan điểm lý luận và phương pháp cách mạng cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh đều nhằm tới mục tiêu: Độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, tự do, dân chủ cho nhân dân, công bằng và hạnh phúc cho mọi người, hòa bình và hữu nghị cho các dân tộc với sự phát triển các quan hệ văn hóa, nhân văn của thời đại. Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021) xác định: Phấn đấu đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Công cuộc đổi mới toàn diện của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo từ năm 1986 đến nay, đã trải qua gần 40 năm và thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, là một kỳ tích của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trong thời kỳ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0). Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường và giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, đến năm 2023, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thuộc tất cả các châu lục. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Đất nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những thành tựu gần 40 năm qua thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
Tuy nhiên, đất nước đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng hiện hữu, kinh tế phát triển chưa bền vững, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Trong Đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, tư tưởng và đạo đức, phai nhạt lý tưởng, tha hóa về lối sống, quan liêu, xa rời quần chúng, đất nước vẫn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đối diện với những nguy cơ đe dọa chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ta. Do đó, để khắc phục những hạn chế, yếu kém trên thì tư tưởng, đạo đức và phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng văn hoá lãnh đạo, quản lý cán bộ, đảng viên ở nước ta trong điều kiện hiện nay.
3. Một số giải pháp tiếp tục vận dụng và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay
Để kiên định và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, theo tôi cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII, khóa XIII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, một cách thiết thực, hiệu quả. Trong đó, cấp ủy các cấp, người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị phải chú trọng nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để kịp thời nhận diện và kiên quyết phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phòng và chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, chú trọng xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh học từ đại học đến sau đại học, để đội ngũ cán bộ đó có trình độ chuyên môn chuyên sâu, có năng lực nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn tốt, góp phần bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng các lực lượng chuyên trách, thường trực, tác chiến nhanh, chính xác, làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng và trong xã hội.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong đó, cụ thể từng nội dung của chuyên đề hằng năm trong sinh hoạt của chi bộ, đoàn thể, trong các cuộc họp của cơ quan, đơn vị, trong các phong trào thi đua gắn với việc chủ động phòng, chống, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; coi đó là nhu cầu tự thân, nền nếp của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân, là một giải pháp căn cốt để bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao tính tự giác trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục nỗ lực học tập và nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, có hệ thống di sản tư tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng trong thực tiễn và chủ động tuyên truyền, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng của Người lan tỏa, thấm sâu trong Đảng và trong xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài và người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Người đã để lại cho chúng ta một di sản hết sức quý báu, vô cùng đồ sộ đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người trở thành “tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[5]./.
ThS.Trịnh Thị Tươi
Khoa XDĐ
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr.125.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.21.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.83.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2021, t.I, tr.109.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.88.